Triều nhà Lý cực phát triển qua 8 vị vua

Tiếp theo, chúng ta sẽ vào phần Linh cung, nơi đặt bài vị thờ 8 vị vua thời Lý. Ở Đền Đô thờ 8 vị vua nhưng theo kiến trúc cổ của người xưa thì lại xây đền với số gian lẻ để tạo ra thế cân xứng cho đền, thế nên Đền Đô chỉ có 7 gian thay vì 8 gian thờ tự.
Đền Đô thờ 8 vị vua nhà Lý gồm: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông.

Nhóm du khách đang hành lễ tại Sân Rồng, ảnh bởi LAG Media

Gian giữa thờ 2 vua đầu tiên trị vì. Vị vua đầu tiên là Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn. Trước khi vua Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, Ông đã quyết định viết 1 bản Lệnh rời đô. Trong bản Lệnh Rời đô của vua Lý Công Uẩn có phân tích rằng: Vì mưu tính việc lớn nên chọn đóng ở chỗ trung tâm, lo cho con cháu hằng muôn ức đời, trên kính vâng mệnh trời, dưới làm theo ý dân, thấy tiện lợi mới rời đổi. Từ nơi thế thủ Hoa Lư ra nơi thế mở Thăng Long, từ nơi núi non hiểm trở ra đồng bằng, tiện lợi cả giao thông bộ thủy để tạo điều kiện phát triển cho con cháu sau này. Vua Lý Thái Tổ làm vua 18 năm, hưởng thọ 55 tuổi.
Bên cạnh chỗ thờ vua Lý Thái Tổ là vua Lý Thái Tông, con trai trưởng của vua Lý Thái Tổ. Ngồi cùng gian của vua cha, để thể hiện cho việc cha truyền con nối tiếp. Vua Lý Thái Tông khi lên ngôi vua, tự tay cầm chiếc cày để cày hết một sào ruộng làm lễ tịnh điền cho người dân.

Hướng dẫn viên đang giới thiệu về 8 vị vua nhà Lý, ảnh bởi LAG Media

Dân gian mới có câu: Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, lúa tốt đầy đồng, thóc chất đầy kho. Vì vậy, vua Lý Thái Tông rất coi trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp từ những năm 1040. Các công chúa – công nương dưới triều của vua Lý Thái Tông đã phải tự trồng dâu nuôi tằm, dệt gấm mà mặc, chứ không cho nhập gấm từ Trung Quốc.
Vị vua thứ 3 là vua Lý Thánh Tông. Khi lên ngôi đổi tên nước ta là Đại Việt để có ý so sánh nước Việt nhỏ bé của chúng ta phải ngang hàng với Đại Tống ở phương Bắc. Ông là người đầu tiên xây dựng trường Đại học đầu tiên của đất nước ta để đào tạo nhân tài cấp tiến sỹ đó là Văn Miếu và sau này vua Lý Nhân Tông lại tiếp tục xây dựng Quốc Tử Giám.
Vị Vua thứ 4 là vua Lý Nhân Tông, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và nguyên phi Ỷ Lan. Khi lên ngôi mở khoa thi Minh Kinh Bác học và nho học đầu tiên ở tại trường Văn Miếu Quốc Tử Giám. Chính ông là mở ra biên giới phía Nam để quân dân Đại Việt có trận chiến thắng oai hùng chống quân xâm lược nhà Tống. Ông lên ngôi khi mới còn 6 tuổi nhưng theo sử sách ông là người trị vị đất nước lâu nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến của đất nước Việt Nam. Ông làm vua tới 56 năm và băng hà ở tuổi 62.
Vị vua thứ 5 là vua Lý Thần Tông, là con nuôi của vua Lý Nhân Tông. Ông lên ngôi khi còn rất trẻ, năm 13 tuổi. Khi ông trị vị đất nước thái bình, ông cho đắp 3 cái đê lớn ở vùng Kinh Bắc để ngăn chặn lũ lụt, bảo vệ mùa màng cho nhân dân.
Vị vua thứ 6 là vua Lý Anh Tông, khi lên ngôi đã 2 lần ra Hải đảo để vẽ bản đồ cho đất nước Việt Nam và xây dựng thương cảng quốc tế đầu tiên để trao đổi buôn bán với nước ngoài đó là thương cảng Vân Đồn – Quảng Ninh. Ông băng hà ở tuổi 40 và truyền ngôi cho con trai thứ của mình là Lý Cao Tông.
Vị vua thứ 7 là vua Lý Cao Tông lên ngôi khi cơ nghiệp nhà Lý rơi vào cảnh suy yếu, chiến tranh, đói nghèo, loạn lạc xảy ra liên miên. Khi trị vì, ông được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của một vị thái úy nổi tiếng trong truyền đình là ông Tô Hiến Thành, nên ông đứng vững ngai vàng tới 35 năm. Ông băng hà ở tuổi 38 truyền ngôi cho con trai trưởng là vua Lý Huệ Tông.
Vị vua thứ 8 là vua Lý Huệ Tông. Khi lên ngôi, cơ nghiệp nhà Lý lúc đó rơi vào cảnh suy yếu, triều đình mang họ Lý nhưng chủ yếu quan văn, quan võ lại do Họ Trần đưa vào,  quyền lực chủ yếu nằm trong tay một vị thái sư nổi tiếng là ông Trần Thủ Độ.

Hướng dẫn viên đang giới thiệu về 8 vị vua nhà Lý, ảnh bởi LAG Media

Vì sức khỏe yếu, vua Lý Huệ Tông sớm truyền ngôi cho con gái của mình là bà Lý Chiêu Hoàng rồi ông xuất gia đi tu.
Phía bên trái của Đền Đô có tấm bia cổ – nơi đặt “Cổ Pháp Điện Tạo Bi”. Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm và có độ dày 17 cm, được khắc năm Giáp Thìn (1605). Bia được chạm khắc tinh xảo, trán bia có hình lưỡng long chầu nguyệt. Mặt trăng tròn vo được chạm nổi, xung quanh có hình tượng hào quang tỏa chiếu. Lòng bia khắc 35 dòng chữ Hán, có xen kẽ một số chữ Nôm, tổng cộng chừng 1.500 chữ.
Ở ngoại thất Đền Đô còn có nhà Thủy đình. Thủy đình rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong được làm bằng gỗ lim chắc chắn, chạm khắc hoa văn tinh xảo. Nhà Thủy đình nằm trên hồ bán nguyệt, được nối với sân chính bằng chiếc cầu đá. Đây là nơi thường diễn ra nghệ thuật múa rối nước và cũng là nơi để các liền anh liền chị Bắc Ninh ca câu quan họ thắm thiết.
Nhà Thủy đình từng được Ngân hàng Đông Dương xưa chọn là hình ảnh in trên “giấy năm đồng vàng” và là hình in trên đồng tiền xu 1.000 đồng hiện nay.
Ngoài thủy đình, nhà bia, khu ngoại thất Đền Đô còn có nhà vuông, nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng).
Hai bên tả hữu Đền Đô là nhà thờ quan văn và quan võ tiêu biểu nhất trong suốt 216 năm của vương triều nhà Lý

Nhà Văn quan có ba gian chồng diêm rộng nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý.
Nhà Võ quan chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc là những quan võ rất tài thao lược.
Như vậy, chúng ta vừa đọc về Đền Đô (Đền Lý bát đế) – một nơi bảo tồn văn hóa và có giá trị nghệ thuật lớn nổi tiếng tại Bắc Ninh. Chắc hẳn các bạn cũng như tôi, đã được lạc vào không gian cổ kính của triều đại thời xưa, phong kiến của Việt Nam và cảm nhận trọn vẹn văn hóa, lịch sử tại vương triều hưng thịnh một thời của Việt Nam.
Trong không khí đầu xuân năm mới Quý Mão 2023, chúng ta hãy thắp một nén nhang để thành kính tại Đền Đô và cầu nguyện may mắn, bình an, hạnh phúc đến với tất cả mọi người. Hi vọng sẽ gặp lại các bạn tại Đền Đô vào các kỳ Lễ hội thiêng liêng này .
Xin chào và hẹn gặp lại!

Lượt xem: 0

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.